Ta mỉm cười khẽ gật đầu.
Phải rồi, ta là Thanh Thanh.
Bà bà không hỏi gì cả, chỉ lẳng lặng thu dọn lại phòng rồi để ta ở lại.
Ở bên bà Dư, ta không cần phải cố gắng trở thành một tiểu thư khuê các không mắc sai lầm, không cần lấy lòng ai cả.
Toàn thân nhẹ nhõm như chưa từng có.
Buổi sáng, ta lùa một bầy gà vịt ra ngoài sân, sau đó ngồi bên hồ nước, nhấm nháp miếng bánh cam bà tự tay làm.
Nhìn thấy bên đường có cây lục đạo mộc, trong lòng nổi hứng, ta hái một giỏ đầy lá mang về.
Bà bà đón lấy, cười hiền:
“Trưa nay ta làm thần tiên đậu hũ cho Thanh Thanh của ta ăn.”
Thần tiên đậu hũ hay còn gọi là “quỷ đậu hũ” được làm từ lá cây lục đạo mộc, chế biến thành một loại giống như đậu hũ màu xanh sẫm.
Ăn cùng ngũ vị tử, nước dưa chua, là món ngon hiếm hoi thuở nhỏ của ta.
Sau khi trở về hầu phủ, có một năm trời nắng gay gắt, mẫu thân ăn uống không nổi.
Ta liền tìm cách kiếm được ít lá lục đạo mộc, tự tay làm một bát thần tiên đậu hũ mát lạnh, như trân bảo mang đến dâng cho bà.
Kết quả, mẫu thân chê món ấy nghèo khổ, nói đó là thứ dân dã của hạ tiện. Phụ thân lại cho rằng cái tên quá xui xẻo, chẳng may mắn gì. Huynh trưởng thì nhíu mày bảo:
“Nguyệt Thanh, những thói quen thôn dã đó, đừng mang về hầu phủ nữa.”
Kể từ hôm đó, ta chưa từng ăn lại thần tiên đậu hũ lần nào.
“Được thôi, trưa nay ăn thần tiên đậu hũ nhé.”
Ta mỉm cười, mắt cong cong đáp lời.
Vừa dứt câu, tim ta đột nhiên quặn thắt, một cơn đau nhói dữ dội ập đến. Ta vội nén giọng, nhanh chóng bước ra khỏi sân, vịn vào thân cây ngoài viện mà ho sặc sụa.
Vài ngụm máu tươi phun ra, rơi trên đám cỏ dại dưới chân.
Chỗ này cách viện không xa, nếu bà bà nhìn thấy, nhất định sẽ sinh nghi.
Ta vội đảo mắt nhìn quanh, đợi cơn đau dịu xuống mới cúi người bốc một nắm đất, nhẹ nhàng lấp đi vết máu.
“Tạ Nguyệt Thanh.”
Một giọng nói vang lên từ không xa, ngữ khí phức tạp gọi tên ta.
Ta ngẩng đầu lên, sững người.
Là Thẩm Dụ.
Chàng vận một bộ trường sam màu nguyệt bạch, mày kiếm mắt sáng, tay dắt theo một con bạch mã. Trên bàn đạp còn treo cẩn thận hai gốc lan quý hiếm, tinh tế và tao nhã.
“Thì ra là Thẩm Thế tử.” Ta khẽ cười chào chàng.
Lúc mới bị từ hôn, ta từng hận chàng. Nhưng nghĩ lại, chàng thật ra… cũng chẳng sai gì cả.
Thẩm Dụ là con út của Hiền Vương. Hôn ước giữa ta và chàng đã được định sẵn từ trước khi ta chào đời.
Hắn là người có nguyên tắc.
Khi biết ta mới là chân chính đích nữ của Tạ gia, hắn lập tức cho người mang lễ vật đến cửa, tỏ rõ hôn ước giữa ta và Vương phủ là ràng buộc với ta.
Trong tất cả mọi người, hắn là người duy nhất nhanh chóng tiếp nhận thân phận của ta.
Khi ấy, ta từng mang trong lòng một tia cảm kích.
Nhưng sau đó, vào lễ cập kê của ta, mẫu thân đã quỳ gối trước mặt bao người để cầu xin ta cứu Tạ Chỉ. Mà hắn… cũng dứt khoát tới cửa, trả lại hôn ước.
“Ngươi sao lại ở đây? Xảy ra chuyện gì rồi à?” Thẩm Dụ nhíu mày hỏi ta.
Ta quay đầu nhìn về cánh cổng gỗ, bà bà vẫn chưa ra, trong viện còn vang vọng tiếng giã lá cây.
“Tiểu thế tử Thẩm gia, ta sắp chết rồi.”
Ta không che giấu.
Cũng chẳng cần phải che giấu làm gì.
8
Khi ta còn hôn ước với Thẩm Dụ, hai ta chỉ gặp nhau vài lần ít ỏi, chưa từng nói chuyện quá mấy câu.
Một phần vì lễ giáo nam nữ, phần khác là do chàng hơn ta năm tuổi, tính tình và tâm cảnh hoàn toàn không cùng một nhịp khó mà chuyện trò gì với nhau được.
Giờ đây, chúng ta lại có thể ngồi cùng nhau mà trò chuyện, mới thấy thế sự xoay vần, vô thường đến nhường nào.
Ta đã nói với người Tạ gia rằng ta sắp chết. Cũng nói với người Văn gia rằng ta sắp chết. Nhưng chẳng ai tin ta cả.
Phụ mẫu và huynh trưởng cho rằng ta đang ghen tị, đang tranh sủng với Tạ Chỉ.
Văn Tấn An thì cho rằng ta đang giận dỗi, lấy cái chết ra để uy hiếp người khác.
Chỉ có Thẩm Dụ ta vừa nói ta sắp chết, chàng chẳng cần suy nghĩ gì, liền tin ngay.
Đột nhiên, trong lòng ta dâng lên một cơn thôi thúc muốn giãi bày.
Ta kể với Thẩm Dụ tất cả những tủi thân, những bất cam, và cả… những hận thù chưa bao giờ dám nói ra.
“Năm xưa ôm nhầm con, chẳng thể nói là lỗi của ai. Nhưng vì sao hậu quả… chỉ mình ta gánh chịu?
Ta từng nghĩ, gả cho Văn Tấn An rồi, cuộc sống sẽ dễ thở hơn. Ai ngờ trời cao lại mang ra trêu đùa ta một vố lớn đến vậy.
Xem ra, kiếp trước ta đã phạm phải tội nghiệt tày trời, nên kiếp này mới phải chịu khổ đến tận cùng như thế.”
Thẩm Dụ nhìn ta, nặng nề thở dài một hơi. Chàng trịnh trọng cúi đầu, thấp giọng nói:
“Tạ Nguyệt Thanh, xin lỗi nàng.”
Ta sững người.
Thẩm Dụ nói tiếp:
“Lúc ta tới phủ từ hôn, không phải vì cho rằng nàng bất hiếu, mà là vì cảm thấy… một người như Tạ phu nhân, có thể quỳ gối trước con ruột của mình trong lễ cập kê, e là rất khó đối đãi. Ta là người yêu tự do, thích những mối quan hệ đơn giản.
Ta lại là con út trong nhà, được cha mẹ và huynh trưởng chiều chuộng từ nhỏ. Chỉ cần nghĩ đến việc có một nhà nhạc gia như thế, ta đã thấy đau đầu, nên mới nhất thời bốc đồng mà đến từ hôn…”
Thì ra… là vậy.
Ta chưa từng nghĩ Thẩm Dụ sẽ nói lời xin lỗi. Càng không ngờ rằng chàng lại chủ động nhắc đến chuyện từ hôn năm xưa.
“Ngày ta tới từ hôn, nàng đã đuổi theo ra tận cổng phủ. Khi ấy ta dù có chút không nỡ, nhưng vẫn không quay đầu lại. Giờ nghĩ lại, ta vô cùng hối hận. Hối hận vì không nghĩ đến hoàn cảnh của nàng.
Nếu khi đó ta đứng ra giúp nàng, sẽ chẳng ai dám lấy đi tâm đầu huyết của nàng. Nếu không phải ta nhất quyết từ hôn, nàng cũng sẽ không phải gả cho loại ngụy quân tử như Văn Tấn An.”
Giọng chàng tràn đầy áy náy và tự trách.
Nhưng… chuyện này đâu phải lỗi của chàng.
9
Thẩm Dụ cáo từ rời đi.
Thế nhưng, đến lúc mặt trời khuất sau núi, hoàng hôn nhuộm đỏ cả chân trời — chàng lại quay trở lại.
Lần quay lại này, Thẩm Dụ trông có phần chật vật hơn hẳn buổi sáng.
Trên bộ trường bào màu nguyệt bạch phủ một lớp bụi mỏng, con bạch mã tuấn tú cũng đã mệt đến mức thở hổn hển.
Chàng kéo từ lưng ngựa xuống một ông lão nhỏ thó, quay sang nói với ta:
“Vị đại phu này từng là ngự y trong cung, y thuật tinh thông. Ta đưa ông ấy đến để khám cho nàng.”
Ánh mắt ta rời khỏi đàn vịt đang nhốn nháo chạy về phía sân, dừng lại trên người vị đại phu nọ, mỉm cười chào hỏi:
“Chào ông, Trần đại phu. Chúng ta lại gặp nhau rồi.”
Sắc mặt Thẩm Dụ khẽ biến, tái nhợt trong thoáng chốc.
Lúc tiễn hai người rời đi, ta nói với Thẩm Dụ:
“Tiểu thế tử, cảm ơn chàng. Nhưng đây là mệnh của ta, chàng không cần phải áy náy.”
“Không phải là áy náy.”
“Vậy là gì?”
Thẩm Dụ lại không chịu nói nữa, chỉ lặng lẽ quay người rời đi dưới ánh tà dương phủ đầy bóng chiều.
Ta xoay người, đuổi theo đàn vịt đang lạch bạch về nhà.
Bà bà nhìn ta, sắc mặt có chút do dự, nhẹ giọng hỏi:
“Vừa rồi là ai đến tìm con vậy? Là người Tạ gia sao?”
“Không phải đâu, chỉ là… một người bạn.” Ta đáp khẽ.
Sắc mặt bà bà thoáng qua một tia thất vọng, nhưng rất nhanh đã giấu nhẹm đi, xoay người vào trong nhà, từ trong rương lôi ra một chiếc hũ sành được bọc bằng một mảnh vải cũ kỹ.
“Thanh Thanh, con còn tiền không? Ta còn ít đây, đều để dành cả cho con.”
Ta mở nắp hũ ra bên trong là một ít tiền đồng và mấy thỏi bạc vụn.
Những thỏi bạc kia… rõ ràng chính là số ta nhờ người mang về suốt bao năm qua. Bà không hề tiêu xài, giữ lại từng đồng từng hào.
“Bà…” Ta nghẹn ngào, cổ họng như bị thứ gì chặn lấy.
Lúc này ta mới nhận ra, viền mắt bà đã ửng đỏ, những nếp nhăn nơi khóe mắt cũng nhuộm đầy nước mắt đã kịp khô.
“Thanh Thanh, ta còn tiền, con bị bệnh gì thì đi mua thuốc mà uống, có được không?”
Ta chết lặng.
Ta vẫn luôn nghĩ mình giấu rất giỏi, bà đã lớn tuổi, mắt cũng chẳng còn tinh… vậy mà
“Ngay khi con vừa đẩy cửa rào bước vào, ta đã nhìn ra rồi. Con gầy quá, áo khoác lên người cũng trống rỗng, rõ ràng là mang bệnh. ta chẳng có bản lĩnh gì lớn lao, nhưng cả đời tằn tiện dành dụm được chút tiền này, đều để dành cho Thanh Thanh của ta mua thuốc mà uống, được không con?”
Bà vừa lải nhải vừa nói, giọng nói lẫn trong hơi thở già yếu, nhưng mỗi một câu… đều là tận đáy lòng yêu thương.
Ta đặt chiếc hũ sành xuống, nhào vào lòng bà, cuối cùng cũng không kìm nổi mà bật khóc nức nở.
“Bà ơi, giá mà chín năm trước con không bị đón về hầu phủ thì tốt biết mấy.”
Nếu không quay về Tạ gia, mà ở lại bên bà Dư, ta cũng chỉ là một cô thôn nữ bình thường, có người thương yêu, gả cho một chàng trai thật lòng với mình, sống cuộc đời đơn giản, bình dị mà hạnh phúc.
Khi ấy, tất cả những đau khổ vì oán – vì hận, vì chia ly, vì không thể có được… đều sẽ chẳng liên quan gì đến ta nữa.